EPP-VN (Environmental Pollution Program in Vietnam) là một sáng kiến quan trọng nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững tại Việt Nam; Với sự hỗ trợ của Liên minh Toàn cầu về Sức khỏe và Ô nhiễm (GAHP) thuộc Chính phủ Vương quốc Anh và Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE).
14/10/2025
Trồng nấm hữu cơ, (hình minh họa Nguyên Minh cung cấp)
Tập trung vào thay đổi gốc rễ về nhận thức xanh
Chương trình EPP-VN (Chương trình Ô nhiễm Môi trường tại Việt Nam) đã đạt được những thành công đáng khích lệ thông qua việc triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn nhằm tận dụng rơm rạ sau thu hoạch, thay thế cho tập quán đốt đồng gây ô nhiễm môi trường và tận dụng phế phẩm nông nghiệp hiệu quả.
Ngành nông nghiệp Việt Nam, mặc dù đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế và sinh kế nông thôn nhưng vẫn đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng gia tăng về môi trường, sức khỏe, các vấn đề khác của cộng đồng. Một tập quán cũ gây hại còn đang rất phổ biến là đốt rơm rạ ngoài trời.
Việc này giải phóng bụi mịn PM2.5, carbon dioxide (CO₂), methane (CH₄), nitrous oxide (N₂O) cùng nhiều khí nhà kính khác, góp phần gây ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và gây ra nhiều bệnh lý hô hấp khác cho vùng dân cư địa phương xung quanh.
Luật Bảo vệ Môi trường 2020 có quy định cụ thể về việc kiểm soát nguồn phát thải từ hoạt động nông nghiệp và quản lý phụ phẩm sau thu hoạch. Đặc biệt, Nghị định số 05/2025/NĐ-CP cũng đã cụ thể hóa các biện pháp khuyến khích nông dân tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, thay vì đốt bỏ. Tạo hành lang pháp lý để các địa phương xây dựng mô hình canh tác xanh và tận dụng phế phẩm nông nghiệp hiệu quả.
Trên cơ sở đó vào năm 2022, Chương trình Ô nhiễm Môi trường tại Việt Nam (EPP-VN) chính thức được khởi động. Nhằm triển khai các nội dung do Chương trình do Liên minh Toàn cầu về Sức khỏe và Ô nhiễm (GAHP) chủ trì, với sự tài trợ từ Chính phủ Vương quốc Anh thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Anh (UKAID/DEFRA)
Trong đó, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) giữ vai trò then chốt trong triển khai thực địa, bao gồm khảo sát, đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp.
EPP-VN được thiết kế như một chương trình hợp tác đa ngành, đa cấp độ. Gắn kết với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, phù hợp với mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc.
Thông qua sự kết nối giữa các tổ chức quốc tế, cơ quan chính phủ, hội nghề nghiệp và cộng đồng nông dân Việt Nam, chương trình hướng đến việc tạo ra thay đổi mang tính hệ thống, thay vì chỉ giải quyết vấn đề tại chỗ hay vài nơi nào đó. Nhằm hướng tới thói quen và tư duy làm nông hiện đại, gắn với kinh xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
EPP-VN vì thế đã tập trung vào thay đổi gốc rễ về nhận thức xanh và giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc đốt rơm rạ. Xây dựng nền móng cho nông nghiệp xanh, tuần hoàn, có khả năng phục hồi hiệu quả cho môi trường đất, nước, đồng ruộng Việt Nam.
Thành công của các mô hình cũng là minh chứng cho thấy Việt Nam không đứng ngoài cuộc trong nỗ lực toàn cầu chống ô nhiễm và biến đổi khí hậu mà còn có thể là hình mẫu có thể chia sẻ, nhân rộng về nông nghiệp xanh cho các quốc gia có điều kiện tương tự, cùng phát triển.
Năm nhóm hành động chính (2022- 2025)
Trong giai đoạn 2022-2025, Chương trình EPP-VN xác định và triển khai năm nhóm hành động trọng tâm.
Đây là khung chiến lược nhằm tạo ra tác động đồng bộ, từ nghiên cứu khoa học đến thay đổi hành vi cộng đồng và định hình chính sách.
Lập bản đồ các điểm nóng về đốt ngoài trời: Hoạt động này tập trung vào việc khảo sát thực địa và thu thập dữ liệu về các khu vực có tình trạng đốt rơm rạ phổ biến. Bản đồ các điểm nóng giúp cơ quan chức năng và nhà nghiên cứu hình dung được quy mô, tần suất và mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Đây cũng là cơ sở để xây dựng kế hoạch can thiệp ưu tiên, lựa chọn địa bàn thí điểm, đồng thời giám sát mức độ cải thiện sau khi áp dụng giải pháp.
Xây dựng cơ sở dữ liệu khoa học về tác động của đốt rơm rạ: Không chỉ ghi nhận hiện trạng, chương trình còn tạo dựng một hệ thống dữ liệu khoa học chuẩn mực, bao gồm các thông số về khí thải, bụi mịn, tác động sức khỏe cộng đồng và ảnh hưởng đến đất, nước, không khí. Cơ sở dữ liệu này là nền tảng để các nhà hoạch định chính sách và chuyên gia y tế đưa ra quyết định chính xác, đồng thời tạo bằng chứng thuyết phục trong các diễn đàn quốc tế về nỗ lực giảm phát thải của Việt Nam.
Nghiên cứu, thử nghiệm và thúc đẩy giải pháp thay thế bền vững: Đây là nhóm hành động quan trọng nhất, nhắm tới việc cung cấp lựa chọn cụ thể cho nông dân thay vì chỉ khuyến nghị. Các mô hình như trồng nấm từ rơm rạ, ủ phân hữu cơ, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế phẩm vi sinh xử lý rơm đã được thí điểm và chứng minh hiệu quả. Việc thử nghiệm nhiều giải pháp khác nhau cũng giúp xác định mô hình phù hợp với từng vùng sinh thái và điều kiện kinh tế – xã hội, từ đồng bằng sông Cửu Long đến miền Bắc.
Truyền thông, nâng cao nhận thức và đào tạo nông dân: Một yếu tố quyết định thành công là sự thay đổi nhận thức và thói quen của cộng đồng nông dân. Vì vậy, EPP-VN tổ chức các khóa tập huấn, hội thảo và chiến dịch truyền thông trực tiếp tại địa phương. Hơn 600 nông dân ở 6 tỉnh đã tham gia, bước đầu hình thành lực lượng nông dân nòng cốt sẵn sàng áp dụng và lan tỏa giải pháp. Song song đó, truyền thông đại chúng được sử dụng để đưa vấn đề ra công chúng, giúp xã hội nhìn nhận đúng đắn hơn về tác hại của đốt rơm rạ.
Hỗ trợ phát triển chính sách và nhân rộng mô hình: Khi các mô hình thí điểm chứng minh hiệu quả, chương trình tập trung vào việc chuyển hóa kết quả nghiên cứu thành chính sách. Điều này đảm bảo tính bền vững và tạo điều kiện để các địa phương nhân rộng. Làm cơ sở để EPP-VN tìm kiếm cơ hội hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia như Indonesia, Bangladesh, Myanmar, Philippines. Đây không chỉ là sự lan tỏa mô hình của Việt Nam mà còn góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong mạng lưới toàn cầu, trong việc ứng phó với ô nhiễm nông nghiệp.
Năm nhóm hành động này không chỉ giải quyết vấn đề rơm rạ bị đốt bỏ vô tội vạ, triệt để, mà còn tạo ra một chuỗi giá trị mới cho các phụ phẩm nông nghiệp Việt Nam có thể làm nên “chuyện lớn”. Thúc đẩy sự tham gia của nhiều bên tham gia và định hình con đường phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam một cách căn cơ, ổn định, lâu dài và thực sự hiệu quả.
Kết quả bước đầu
Sau hơn ba năm triển khai (2022-2025), Chương trình EPP-VN đã ghi nhận nhiều kết quả quan trọng, thể hiện tác động rõ rệt từ cấp hộ gia đình nông dân đến cộng đồng và thậm chí mở ra giá trị lan tỏa quốc tế, với các thành công như sau:
Mô hình Trồng nấm rơm (Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long)
Đây là mô hình điển hình và mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt nhất, đặc biệt tại các tỉnh có diện tích lúa lớn như An Giang, Hậu Giang. Nơi nông dân được đào tạo kỹ thuật sử dụng rơm rạ sau thu hoạch để trồng nấm rơm trong nhà hoặc ngoài trời.
Với hiệu quả kinh tế tốt như tăng thu nhập: Mô hình trồng nấm mang lại nguồn thu nhập mới và cao hơn đáng kể so với chỉ trồng lúa. Đã có nông dân thu về hàng chục triệu đồng mỗi tháng từ mô hình này, gấp đôi thu nhập từ lúa truyền thống.
Đồng thời giảm chi phí do rơm rạ không còn là chất thải mà trở thành nguyên liệu đầu vào, giảm chi phí xử lý. Giảm triệt để việc đốt rơm rạ, từ đó giảm phát thải bụi mịn và các khí nhà kính khác, cải thiện chất lượng không khí trong đất, nước, môi trường.
Điển hình như một số nông dân tại An Giang, sau khi được EPP-VN và các tổ chức liên quan đào tạo và hỗ trợ vốn, đã đầu tư xây dựng nhà kính trồng nấm, biến rơm rạ thành nguồn lợi quý giá với thu nhập khá cao. Đã có nông hộ trồng nấm nhà kính cho thu nhập khoảng 24 triệu đồng/ tháng, gấp đôi so với canh tác lúa truyền thống.
Mô hình Sản xuất Phân Hữu cơ (Compost) và Thức ăn Chăn nuôi
Đây là giải pháp tận dụng triệt để rơm rạ cho các hoạt động sản xuất tiếp theo như sản xuất phân compost, phân uữu cơ và chế biến thức ăn chăn nuôi.
Bằng cách sử dụng rơm rạ kết hợp với các chế phẩm sinh học (như nấm, vi sinh vật) để ủ thành phân hữu cơ chất lượng cao. Phân hữu cơ được sử dụng để bón lại cho đồng ruộng, giúp cải tạo đất, giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học, giảm chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng nông sản, dùng cho tiêu thụ nội địa và có thể cho xuất nhập khẩu tốt.
Ngoài ra phụ phẩm còn dùng chế biến thức ăn chăn nuôi: Như cách thức dùng rơm rạ nhằm xử lý, ủ chua hoặc bổ sung dinh dưỡng để làm thức ăn thô cho chăn nuôi gia súc, gia cầm và đặc biệt là trâu, bò khá hiệu quả. Vừa tận dụng được nguồn thức ăn dồi dào, giảm chi phí thức ăn cho chăn nuôi, đồng thời giảm ô nhiễm ra môi trường rất nhiều.
Ứng dụng Cơ giới hóa và Chuyển đổi Tư duy
Thành công lớn nhất của EPP-VN là tạo ra sự thay đổi trong nhận thức và thói quen sản xuất của nông dân ở các địa phương, nơi có dự án đi qua.
Cơ giới hóa, Quản lý rơm rạ đã có sự hỗ trợ ứng dụng máy móc (như máy cuộn rơm, máy đảo trộn luống ủ) vào quy trình thu gom và chế biến rơm rạ, giúp việc xử lý phụ phẩm trở nên dễ dàng và tiết kiệm thời gian hơn.
Từ đó, lợi ích cộng đồng và việc tăng thu nhập khá hiệu quả và bền vững. Với việc áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ đã giúp nông dân tăng thu nhập từ 25-35% so với chỉ trồng lúa đơn thuần.
Lợi ích kinh tế trực tiếp là động lực mạnh mẽ nhất để nông dân có thể thay đổi tư duy, từ bỏ tập quán đốt đồng. Đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của phế và phụ phẩm nông nghiệp trong việc tạo dựng các mô hình kinh tế bền vững khác. Phù hợp với cách thức của người dân ở nhiều địa phương.
Hy vọng là từ những thành công ban đầu này sẽ ngày càng được mở rộng, giúp nông dân Việt Nam sản xuất xanh hiệu quả. Đồng thời thay đổi nhận thức cách thức làm nông nghiệp xanh, bền vững hơn trong tương lai.
Kiều Nguyễn